Khái niệm

Tín dụng ngắn hạn là gì? Phân loại tín dụng ngắn hạn

Khái niệm tín dụng ngắn hạn.

Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại được phân theo thời gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời hạn ngắn- dưới 1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ xung vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

Đặc điểm.

• Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua
nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường nhỏ,
nguồn vốn được quay vòng nhiều. Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ
nguồn trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời gian sử dung
lâu dài vì vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được quay vòng
nhiều.
• Thời hạn thu hồi vốn nhanh: do vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng để
bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn, để đảm bảo cân bằng ngân quỹ, giúp
doanh nghiệp đối phó với những chênh lệch thu chi trong ngắn hạn… Thông
thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính mùa vụ, sau
đó khoản thiếu hụt này sẽ được bù đắp hoặc sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ
vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
• Rủi ro do tín dụng ngắn hạn mang lại thông thường không cao. Do khoản vay
chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động
không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh
theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo
lãnh… đồng thời khoản vay thường đựơc tiến hành khi có nhu cầu cấp thiết về
vốn ngắn hạn và chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro
mang đến thường thấp.
• Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả cho
nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của ngươì khác. Chính vì rủi ro mang lại của Tín dụng ngắn hạn

1/8 khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ hơn lãi suất khoản vay tín dụng trung và dài hạn tương ứng.

– Hình thức tín dụng phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu…

– Là loại hình kinh doanh chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ đặc trưng của ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình, các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là ngắn hạn.

Các hình thức tín dụng ngắn hạn

Chiết khấu thương phiếu

Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá trị đáo hạn của trái phiếu trừ đi một số tiền lãi, hoa hồng và một số chi phí khác. Tiền lãi tính từ ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu.

Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được thanh toán số tiền đúng bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh toán là thời hạn ngắn ( 90 đến 180 ngày).

Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình một số tiền để sử dụng ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn. Về nguyên tắc, ngân hàng có thể nhận chiết khấu tất cả các trái phiếu nhưng thông thường ngân hàng thích nhất là hối phiếu.

Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:

• Đơn xin chiết khấu

• Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu.

Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau:

• Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu

• Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến thương phiếu.

• Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là người thụ lệnh (người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin chiết khấu).

Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu đủ điều kiện sau:

• Còn thời hạn thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước

• Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung.

• Đối với hối phiếu thì phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo

• Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức
ký hậu.

Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ những thương phiếu không đủ điều kiện chiết khấu hay còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính số tiền ngân hàng trả cho khách hàng theo các thương phiếu nhận chiết khấu.

Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu.

Nếu người này không thanh toán, ngân hàng có thể chọn một trong hai cách xử lý sau:

• Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết khấu
để thu hồi, sau đó trả lại thương phiếu để họ tự đòi nợ.

• Ngân hàng tiến hành thủ tục để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng có quyền chỉ định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương phiếu để trả nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường chỉ định người nào có đủ khả năng tài chính nhất.

Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ chiết khấu:

Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng có khá nhiều ưu điểm, đó là:

• Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá
chắc chắn.

• Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân hàng.

• Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu
ngắn và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu thương
phiếu ở Ngân hàng Nhà nước.

• Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền
gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng.

• Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh toán và trong thực tế không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó đây là hình thức cho vay ít rủi ro nhất.

Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể gặp phải rủi ro do ba nguyên nhân cơ bản sau:

• Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo.

• Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu hỏng dẫn đến
khó khăn trong thanh toán.

• Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá sản.

Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ

Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu chi.

Ứng trước trên tài khoản

Ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay tiền bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Từ tài khoản đó, khách hàng có thể ký phiếu lĩnh tiền tới mức tín dụng mà ngân hàng cấp cho mình.

Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo thì tín dụng ứng trước bao gồm: ứng trước có đảm bảo và ứng trước không đảm bảo.

• ứng trước có bảo đảm: khi nào khách hàng thực sự vay tiền thi phải thế chấp
hay cầm cố một tài sản hay một giá trị làm đảm bảo nhất định cho khoản tiền
vay đồng thời khách hàng phải ký một lệnh phiếu trao cho ngân hàng giữ cam
kết hoàn trả số tiền đã vay vào thời điểm nhất định.

• Trong trường hợp không có tài sản bảo đảm, hay tài sản bảo đảm kém giá trị
khách hàng có thể nhờ một người có tài sản bảo lãnh số nợ đó bằng một tờ cam
kết. Người bảo lãnh do khách hàng chọn nhưng phải được sự chấp nhận của
ngân hàng.

Nếu căn cứ vào các thức sử dụng tiền vay thì tín dụng ứng trước có hai cách sử dụng tiền vay:

• Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng tiến hành cho vay theo mức
cho vay đã thoả thuận, ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền cho vay vào tài khoản
tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp để doanh nghiệp tuỳ ý sử dụng theo nhu
cầu. Đây là cách cho vay mà các ngân hàng thường áp dụng.

• Khách hàng được sử dụng dần số tiền vay trên tài khoản vay (tài khoản ứng
trước). Việc sử dụng bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài khoản
ứng trước. Khi tờ séc do khách hàng phát hành quay trở về ngân hàng thì ngân
hàng trích tài khoản vay để chi trả.

Khách hàng có thể sử dụng tiền vay một hoặc nhiều lần. Nếu khách hàng phát hành séc để chi trả (mang số hiệu tài khoản vay) vượt mức cho vay đã thoả thuận thì ngân hàng áp dụng các biện pháp chế tài do phát hành séc không có tiền bảo chứng.

Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng thương mại có thể áp dụng song không phổ biến.

Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước

Ưu điểm:

• Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút ngay một lúc
vì nhu cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu khách hàng dùng tiền
ứng trước đó vào việc thanh toán cho khách hàng khác có tài khoản tại ngân
hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng không bị hao hụt. Mặt khác, với cách cho
vay này thì ngân hàng được hưởng một khoản lãi tính trên toàn bộ số tiền ứng
trước trong suốt thời gian cho vay dù khách hàng có sử dụng hết hay không hết
số tiền đó.

• Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể đáp ứng tính
thời vụ về vốn của họ.

Nhược điểm:

• Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân hàng khó kiểm
soát việc sử dụng tiền vay của khách hàng.

• Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho vay trong thời
gian đã thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết).

Thấu chi – thấu chi là gì?

Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản vãng lai với một số lượng và thời hạn nhất định. Xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp có số dư trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi tiêu, nhưng do một lý do nào đó mà số dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Trường hợp đó ngân hàng có thể xem xét chấp nhận để khách hàng được quyền chi tiêu một số tiền vượt quá số hiện có trên tài khoản. Mục đích của ngân hàng chỉ để giúp khách hàng giải quyết khó khăn tạm thời về tài chính.

Tài khoản vãng lai là tài khoản có tính chất đặc biệt, trong đó khách hàng và ngân hàng cam kết trả nợ lẫn nhau bằng phương pháp bù trừ. Với những tài khoản tiền gửi khác, khách hàng chỉ được phép sử dụng trong giới hạn số dư có của tài khoản đó, nếu sử dụng quá số tiền trên là vi phạm vì phát hành séc không có hay thiếu tiền bảo chứng. Song đối với tài khoản vãng lai, giữa ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận cho phép tài khoản dư có hoặc dư nợ, số dư nợ được hai bên thoả thuận đến một giới hạn tối đa nào đó (hạn mức dư nợ), quá hạn mức này thì các tờ séc của khách hàng bị coi như thiếu hay không có bảo chứng.

Như vậy, nếu tài khoản dư có thì số dư đó thể hiện tiền gửi của khách hàng ở ngân hàng và thông thường ngân hàng phải trả cho khách hàng lãi tiền gửi. Nếu tài khoản dư nợ thì số nợ đó thể hiện tiền ngân hàng cho vay và khách hàng phải trả lãi tiền vay cho ngân hàng.

Điều kiện đi vay của khách hàng:

• Đơn vị có tình hình tài chính tốt.

• Nhu cầu chi tiêu đó thực sự là bức bách và không quá lớn như nhu cầu trả lương cho cán bộ công nhân viên.

• Khách hàng cần chứng minh được là sẽ có nguồn thu để trả

Qua phần trình bày trên, ta thấy tín dụng thấu chi có các đặc điểm sau:

• Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách hàng được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định.

• Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản vãng
lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác.

• Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng tiền tệ trên tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.

• Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với nhau chưa
phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất
hiện dư nợ của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được
tính tiền lãi trên số dư nợ đó.

• Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến động vì thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối vật.

Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản

Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng những thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc cho phép vượt chi trên tài khoản vãng lai giúp cho việc cân đối ngân quỹ mà tránh phải đi xin vay nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ, khi mà ngay sau đó lại có những khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm bớt việc phải trả lãi cho ngân hàng.

Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản đáp ứng được yêu cầu của những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có hiệu quả, do đó hầu hết các doanh nghiệp có yêu cầu sử dụng hình thức tín dụng này nhằm điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.

Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực tế họ có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi ấy,  ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ số tiền và thời hạn cho vay đã thoả thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải trả một khoản phí cam kết theo một tỷ lệ nhất định tính trên hạn mức tín dụng, không kể đến việc hạn mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào).

Mặt khác, tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ định của ngân hàng mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, ngân hàng khó có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay. Vì vậy, sự rủi ro của ngân hàng có thể nhiều hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. Từ những nhược điểm trên mà ngân hàng thường áp dụng hình thức tín dụng này đối với những khách hàng quen thuộc, có tín nhiệm và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ mà thôi.

Nhu cầu tín dụng ngắn hạn.

Trong giai đoạn quá độ hiện nay, hơn 90% số doanh nghiệp kinh doanh trên nước ta là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của doanh nghiệp không cao do đó doanh nghiệp rất dễ mắc phải những khó khăn dưới đây dẫn đến nhu cầu vay các khoản ngắn hạn.

• Trong chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp, ban đầu tiền mặt được sử dụng để
mua nguyên liệu dự trữ, bán thành phẩm hoặc thành phẩm; hàng hoá được sản
xuất hoặc dự trữ để bán sau đó được bán ra (thường là bán chịu) ; cuối cùng là
thu tiền mặt về. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tránh khỏi có sự lệch pha
giữa thời hạn thanh toán tiền hàng của khách hàng và thời gian mua nguyên vật
liệu để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Chính vì vậy, doanh nghiệp thường
phải vay vốn ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt tiền mặt tạm thời này. Do đó
khoản vay cũng thường đựơc đảm bảo bằng khoản sẽ thu hay hàng tồn kho.

• Doanh nghiệp có khó khăn tạm thời về tài chính: doanh nghiệp cần tiền để
thanh toán nhưng lại không có chứng từ để phản ánh mối quan hệ mua bán chịu
đó trong khi đó số dư trên tài khoản của họ không đủ chi tiêu khi đó doanh
nghiệp rất cần các khoản vay ngắn hạn để giải quýêt những khó khăn này.

Trường hợp này xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên, phải trả nợ thiếu của khách hàng, thông thường các khoản này không quá lớn và ngân hàng có thể xem xét cho khách hàng chi vượt.

• Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp muốn sử dụng lượng tài sản này để xin vay giải quyết khó khăn về vốn do lượng tài sản này gây ra.

• Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng quy mô,
gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở rộng. Khi nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường được dự đoán tăng cao nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để mở rộng…

Vai trò của tín dụng ngắn hạn.

Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất của tín dụng ngắn hạn. Thông qua việc cung cấp vốn tín dụng để mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất.

Nước ta đang trên đà CNH- HĐH, tuy nhiên do đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai đoạn quá độ vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90% tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh nghiệp này lại là sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp này là khá lớn và thường xuyên. Đảm bảo cung cấp vốn tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp chính là giúp các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất từ đó có thêm nguồn vốn đầu tư vào kinh doanh dần dần trở thành các doanh nghiệp với quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.

Kích thích tính năng động, linh hoạt, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp:

Tín dụng ngắn hạn là nguồn cung cấp vốn kịp thời cho các nhà kinh doanh trong trường hợp họ gặp khó khăn về vốn tạm thời như: muốn mở rộng sản xuất vào mùa vụ, cần trả tiền cho khách để giữ uy tín, trả lương cho công nhân… từ đó giúp doanh nghiệp có thể đối phó với những khó khăn về vốn, giữ cân bằng thu chi, điều hoà vốn. Ngoài ra vốn tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp trong một thời gian ngắn do đó đòi hỏi doanh nghiệp cần đẩy nhanh tiến độ sản xuất kinh doanh – kích thích tính năng động của các doanh nghiệp.

Giúp tăng nhanh vòng quay của vốn: do tín dụng ngắn hạn là khoản tín dụng cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp nhanh chóng thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng qua đó thúc đẩy gia tăng vòng quay vốn.

Phân loại tín dụng ngắn hạn.

Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.

Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây:

Tín dụng ứng trước – Tín dụng ứng trước là gì?

Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi của chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản, thấu chi, tín dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển)..Nhìn chung, các khoản tín dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động, nghĩa là không thực hiện một tài sản xác định nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng.

Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:

Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản.

Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định.

Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho họ một tín dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác.

Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân hàng đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình thức sau:

Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.

Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh giá khách hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý.

Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo lãnh của một hay nhiều người khác.

Thấu chi.

Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đồng tín dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất định. Thấu chi là kỹ thuật cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp được sử dụng vốn một cách linh hoạt, các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể thực hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo chứng.

Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu cầu về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín dụng thấu chi ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất chính xác về sự phát sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.

Tín dụng vãng lai.

Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam. Có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc quy tụ những thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng lai, để hiểu thêm những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó rút ra những thích ứng với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và phát triển đa dạng các loại tín dụng của NHTM.

Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình : bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử dụng với số lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng .

Tín dụng thời vụ.

Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm nào đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm khác hoặc ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí đột biến và dàn đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành trong một thời gian rất ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ vốn lưu động và nó được thoả mản bằng tín dụng thời vụ.

Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các thời vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài trợ thời vụ cụ thể của tong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì chắc chắn là một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc không tận dụng số tư bản thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của vốn này do đó cũng phải gánh chịu những hậu quả.

Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.

Chiết khấu thương phiếu.

Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại.

Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan trong trong kinh doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng được thực hiện thông qua việc chiết khấu thương phiếu:

-Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các thương phiếu đó được chiết khấu tại ngân hàng của họ.

-Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách hàng.

Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể giữ các phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng chiết khấu thương các phiếu.

-Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất sớm và mãi đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và lệnh phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua. Đây chính là tiền đề để người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Lại nữa nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHTW khi ngân hàng ngặp khó khăn về thanh khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỷ các hối phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.

Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.

Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các loại: Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua uỷ nhiệm thu..

Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng.

Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa ra bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả thay cho người đi vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp đó là sự xác nhận khoản tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi thực hiện cho vay qua cam kết bằng chữ ký, ngân hàng không phải xuất quỹ đễ cho khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định, mà chỉ đưa ra một cam kết bảo lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như vậy, chỉ khi nào con nợ không trả được nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông thường để thực hiện nghiệp vụ này thì ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo một tỷ lệ so với vốn pháp định. Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tín theo tỷ lệ phần trăm trên tổng giá trị bảo lãnh.

Vai trò của tín dụng ngắn hạn.

Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền kinh tế, các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn có vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là một nước trong giai đoạn đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện:

Đối với nền kinh tến

Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, Bảo hiểm nhân thọ các quỹ đầu tư, công ty tài chính.. Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những ngồn vốn và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một nguồn một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn hạn ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Đối với các doanh nghiệp.

Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động kinh doanh được liên tục

Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi của một doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có những thời điểm trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời và cần bổ sung ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây lắp..hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.

Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.

Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng.

Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên thị trường.

Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng.

Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển doanh nghiệp.

Đối với ngân hàng.

Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các vấn đề : Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí( chi phí huy động vốn, chi phí trả lương, chi phí quản lý… Mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị giải quyết vấn đề này.

Các quy định trong hoạt động tín dụng ngắn hạn.

Nguyên tắc tín dụng:

Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

-Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

-Phải hoàn trả nơ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

-Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện đúng quy định của chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Điều kiện vay vốn.

Ngân hàng sẽ xem xét và quyết định cho khách hàng vay khi khách hàng có đủ các điều kiện:

*Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu quy định của pháp luật.

*Có khả năng đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Cụ thể :

-Đối với pháp nhân phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, công ty hợp danh, mức vốn tự có tham gia trực tiếp vào phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống tối thiểu bằng 20% nhu cầu vốn thực hiện phương án.

-Sản xuất kinh doanh có lãi hoặc không bị lỗ, nếu bị lỗ thì phải có dự án khả thi khắc phục hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận bù lỗ.

-Có tình hình tài chính lành mạnh.

-Khách hàng phải mua bảo hiểm tài sản là đối tượng vay vốn.

*Mục đích sử dụng vốn hợp pháp.

*Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi.

*Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay của NHNN.

Đối tượng cho vay.

*Giá trị vầt tư hàng hoá trong các khâu dự trữ, lưu thông và các chi phí cấu thành giá mua hoặc giá thành sản phẩm, các khoản chi phí khác để doanh nghiệp tiến hành phương án sản xuất kinh doanh.

*Số tiền thuế xuất nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu mà giá trị lô hàng xuất khẩu đó tổ chức tín dụng có tham gia cho vay. Ngân hàng không cho vay ngắn hạn để nộp khấu khao, nộp thuế và phần lãi định mức(đối với các xí nghiệp xây lắp). Những vầt tư hàng hoá là những đối tượng vay vốn có khả năng luân chuyển. Ngân hàng không cho vay vốn để mua vật tư, hàng hoá ứ đọng hoặc để thực hiện những khối lượng thi công ngoài kế hoạch vốn đầu tư của Nhà Nước đã ghi, ngoài thiết kế dự án hoặc nguồn vốn chưa rõ nguồn vốn đầu tư.

Thời hạn cho vay.

Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với các chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Lãi suất cho vay.

Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết. Tuỳ các mức độ quan hệ của ngân hàng và khách hàng mà có các mức độ ưu tiên về lãi suất khác nhau. Nếu khoản vay quá hạn trả nợ thì phải áp dụng lãi suất quá hạn.

Phương pháp xác định lãi suất cho vay được xác định trước khi cho vay dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản.

Tại Việt Nam lãi suất cho vay ngắn hạn do tổng giám đốc tổ chức tín dụng ấn định trong phạm vi khung lãi suất do NHNN ấn định trong từng thời kỳ.

Mức cho vay:

Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản làm bảo đảm tiền vay, khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay nhưng không được vượt quá mức quy định tại điều 79 của Luật các tổ chức tín dụng.

Ngân hàng xây dựng mức cho vay đối với tong doanh nghiệp trên cơ sở vốn vay chỉ bổ sung cho vốn lưu động thiếu, sau khi doanh nghiệp đã tận dụng hết vốn tự có. Các nguồn vốn khác bao gồm cả vốn được các chủ đầu tư ứng trước khi doanh nghiệp trúng thầu.

Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có nguồn thu ổn định, tình hình tài chính lành mạnh, có quan hệ vay vốn thường xuyên và có tín nhiệm đối với khách hàng, ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là giới hạn dư nợ tối đa mà ngân hàng cam kết cho khách hàng vay trong một thời hạn nhất định và được xác định như sau:

1. Chi phí cần thiết để sản xuất kinh doanh quý, kỳ hoặc thời vụ kế hoạch là giá trị sản lượng thực hiện trong quý, kỳ hoặc thời vụ chuẩn bị làm loại trừ đi các khoản khấu hao, thuế, lãi định mức và các khoản không thuộc đối tượng cho vay khác.

2. Là vốn lưu động tự có của khách hàng.

Ngoài ra hạn mức tín dụng dựa trên cơ sở:

-mức dư nợ cao nhất

-mức cho vay tối đa theo quy định của pháp luật

-mức cho vay tối đa theo quyết định của chính sách tín dụng mỗi ngân hàng thương mại.

-Đảm bảo tiền vay.

Đối với những doanh nghiệp có nguồn thu không thay đổi, các doanh nghiệp doanh nghiệp có quan hệ không thường xuyên với ngân hàng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình.. .ngân hàng thường áp dụng cho vay từng món trên cơ sở thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, ngân hàng xác định được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và quyết định mức cho vay, thời hạn, phương thức trả nợ đối với từng doanh nghiệp cụ thể. Mức cho vay được xác định:

Giải ngân và thu nợ.

Tuỳ theo nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong từng thời điểm và những điều kiện cụ thể khác mà ngân hàng thực hiện giải ngân theo đúng kế hoạch thoả thuận.

Khi đến hạn ngân hàng tiến hành thu nợ đối với các khoản cho vay. Doanh nghiệp có trách nhiệm trả nợ theo phương thức thoả thuận và đúng hạn.

Nếu doanh nghiệp không tự động trả nợ khi đến hạn thì ngân hàng tự động trích tiền gửi của khách hàng hoặc gửi giấy báo nhờ ngân hàng mà khách hàng có tài khoản thu hộ. Trong trường hợp đến hạn mà doanh nghiệp không trả được nợ và không được gia hạn nợ thì ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn.

Quy trình cho vay ngắn hạn.

Cũng như các loại hình cho vay khác, cho vay ngắn hạn tuân theo một quy trình nhất định từ khâu thẩm định khách hàng, xét duyệt cho vay, ký kết hợp đồng cho đến giải ngân và thu nợ.

Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.

Khi khách hàng đến đề xuất yêu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng cụ thể và đầy đủ về các điều kiện vay vốn. Nếu khách hàng đồng ý thì hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.

Hồ sơ vay vốn gồm :

-giấy tờ chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân.

-giấy đề nghị vay vốn

-phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ.

-các báo cáo tài chính thời điểm gần nhất(bảng tổng kết tài sản và bảng quyết toán lỗ lãi). Nếu là doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi phải có kiểm toán.

-hợp đồng thế chấp, bảo đảm, cầm cố tài sản và các giấy tờ gốc chứng nhận sở hữu đối với tài sản thế chấp, bảo đảm, cầm cố, bảo lãnh.

-các giấy tờ khác liên quan đến việc vay vốn: Hợp đồng mua bán hàng hàng hoá dịch vụ; giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc cota nhập khẩu.

Bước 2: Điều tra, tổng hợp, thu thập các thông tinvề khách hàng và phương án vay vốn.

Sau khi tiếp nhận hồ sơ, để quyết định cho vay hay từ chối khoản vay cán bộ tín dụng phải điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin về khách hàng bao gồm: Thông tin do khách hàng cung cấp(qua phỏng vấn, từ hồ sơ vay vốn và sổ sách kế toán, báo cáo tài chính) và thông tin do cán bộ tín dụng tự điều tra.

Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.

Nội dung cơ bản của bước này tập trung vào hai vấn đề chủ yếu:

-phương án vay vốn phải đầy đủ các điều kiện cho vay, đảm bảo khả năng cho vay thu được gốc và lãi đúng hạn.

-hồ sơ, thủ tục vay vốn phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp, nếu xảy ra tranh chấp, tố tụng thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng.

*Các vấn đề thẩm định bao gồm:

-năng lực pháp lý của khách hàng.

-tính cách và uy tín của khách hàng

-năng lực tài chính của khách hàng: Đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng nhằm xác định sức mạnh tài chính, khả năng độc lập tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của khách hàng. Ngoài ra, xác định nhu cầu thực sự vay của khách. Dựa vào báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng tính các chỉ tiêu để đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.

-phương án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng: Đánh giá mức độ khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và tính toán chính xác nguồn trả nợ cuả khách hàng.

-đánh giá các bảo đảm tiền vay của khách hàng(tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh);kiểm tra tính pháp lý, quyền sở hữu của khách hàng đối với những tài sản này.

-phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn trả nợ vốn của khách hàng.

Bước 4: Quyết định cho vay.

Sau khi xem xét, thẩm định hồ sơ vay vốn thấy thoả mản các điều kiện và nguyên tắc, ngân hàng quyết định cho vay đối với ngân hàng.

Bước 5: Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp cầm cố.

Bước 6: Phát tiền vay(giải ngân)

Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng vay vốn, tuỳ theo mục đích sử dụng tiền vay; phương thức thanh toán có liên quan đến tiền vay để ra quyết định hình thức phát tiền phù hợp.

Cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng lập chứng từ gồm bảng kê(như hợp đồng mua bán hàng hoá, hoá đơn) uỷ nhiệm chi, séc chuyển tiền. Tiền vay được chuyển trả trực tiếp cho đơn vị cung cấp vật tư, hàng hoá và chỉ phát tiền mặt hoặc phát ngân phiếu thanh toán cho đơn vay khi người cung cấp không có tài khoản tại ngân hàng.

Bước 7: Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro.

– Giám sát và theo dõi nhằm kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch trả nợ và khả năng trả nợ và khả năng thực hiện, phát hiện dự báo những rủi ro có thể phát sinh; phát hiện sớm những khoản vay có vấn đề trước khi trở nên nghiêm trọng nhằm đề xuất giải quyết xử lý kịp thời.

– Cán bộ tín dụng mở sổ theo dõi doanh nghiệp đến tong khế vay, diễn biến dư có trên tài khoản tiền gửi để thu nợ đúng hạn.

– Phân tích các báo cáo tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh mới nhất của khách hàng. Đối với khách hàng có dư nợ lớn, định kỳ 6 tháng và 1 năm, cán bộ tín dụng phải phân tích toàn diện hoạt đồng sản xuất kinh doanh, tài chính của doanh để áp dụng các biện pháp cho vay, thu nợ, quản lý tín dụng theo các loại doanh nghiệp phù hợp.

– Phân tích, đánh giá, xếp loại các danh mục nợ quá hạn, khó đòi, nợ có vấn đề để có biện pháp xử lý.

Bước 8: Thu hồi nợ, gia hạn nợ.

– Căn cứ vào khế ước nhận nợ, trước kỳ hạn thu nợ 5 ngày, cán bộ tín dụng lập phiếu báo thu nợ trình giám đốc gửi cho doanh nghiệp vay vốn.

– Các khoản nợ có vấn đề, khách hàng có đơn đề nghị được gia hạn nợ, giãn nợ, cán bộ tín dụng them định, kiểm tra rồi lập tờ trình cho giám đốc xem xét và quyết định.

– Các khoản nợ đến hạn mà không trả được, không được gia hạn, giãn nợ, khoanh nợ.. thì áp dụng các biện pháp kiên quyết đê thu hồi nợ.

Bước 9 : Xử lý rủi ro.

Những khoản nợ đã dùng mọi biến pháp giải quyết nhưng không thu hồi được thì phải tiến hành xử lý rủi ro theo quyết định bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng.

Bước 10: Thanh lý hợp đồng vốn.

Sau khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi hoặc dư nợ vay đã được xử lý bằng quỹ rủi ro hoặc xoá nợ, cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán đối chiếu, tất toán tài khoản cho vay của món nợ đó. Chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến khoản vay vào kho lưu trữ tài liệu.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Check Also
Close
Back to top button